Thánh Augustinô Phan Viết Huy (1795-1839) - Các Thánh Tử Vì Đạo tại Việt Nam

Thánh Augustinô Phan Viết Huy (1795-1839) - Các Thánh Tử Vì Đạo tại Việt Nam
Augustinô Phan Viết Huy, binh sĩ người Hạ Linh, Bùi Chu, Nam Ðịnh, sinh năm 1795. Sau khi bị căng xác trên giá và cưa làm hai mảnh, ngài đã tử đạo tại Thừa Thiên 13/06/1839. Năm 1900, ngài được phong Chân Phước, đến 19/6/1988, Giáo hoàng Gioan Phaolô II tôn phong các ông lên bậc Hiển thánh. Lễ kính ngài vào ngày 13 tháng 6.
Đã được tạo:

Augustinô Phan Viết Huy, binh sĩ người Hạ Linh, Bùi Chu, Nam Ðịnh, sinh năm 1795. Năm 1839, ông bị bắt vì theo đạo Công giáo. Sau khi bị căng xác trên giá và cưa làm hai mảnh, ngài đã tử đạo tại Thừa Thiên 13/06/1839. Năm 1900, ngài được phong Á Thánh. Lễ kính ngài vào ngày 13 tháng 6.

Năm Minh Mệnh thứ 19, vua Minh Mệnh ra chiếu chỉ buộc các quan phải bắt các lính có đạo trong quân ngũ phải quá khóa. Quan tổng đốc Nam Ðịnh Trịnh Quang Khanh được giao nhiệm vụ này. Chiếu chỉ của vua yêu cầu Khanh phải bắt tất cả các linh mục trốn tránh trong tỉnh và thanh trừng các lính Công giáo trong quân ngũ đến đứa cuối cùng. Vua Minh Mệnh không muốn giết các lính Công giáo, nhưng muốn họ bỏ đạo.

Trịnh Quang Khanh là một người dữ tợn, chuyên dùng những hình phạt kinh khủng để khủng bố người theo đạo. Ông cho 500 lính Công giáo bị điệu ra trước tòa, rồi dùng đủ mọi cách dụ dỗ họ chối đạo.

Ông ta cho các lính ăn uống no say, rồi bao vây họ bằng hàng ngàn quân lính võ trang. Trên khán đài, ông ta ngồi chễm chệ, hứa hẹn rất nhiều lợi lộc cho những ai chối đạo. Ông ta cũng đe dọa rằng nếu không chối đạo thì sẽ bị trừng phạt nặng nề.

Trước những lời dụ dỗ của Trịnh Quang Khanh, nhiều lính Công giáo đã hoảng sợ và chối đạo. Tuy nhiên, vẫn có một số người kiên quyết giữ vững đức tin, họ không chịu chối đạo, và chấp nhận bị tử hình.

Để buộc các lính Công giáo chối đạo, Trịnh Quang Khanh chỉ yêu cầu họ bước qua thập giá. Nếu làm vậy, họ sẽ được phục chức trong quân đội và không bị ai nhắc đến đạo Công giáo với họ trong tương lai. Tuy nhiên, ông ta cũng đe dọa sẽ trừng phạt nặng nề những ai không tuân lệnh.

Nhiều lính Công giáo đã hoảng sợ và bước qua thập giá. Một số khác thì kiên quyết từ chối, nhưng bị quân lính lôi qua thập giá bằng vũ lực. Cũng có người thì dùng tiền hối lộ để khỏi bị lôi qua thập giá.

Sau cuộc xét xử hỗn loạn, các quan vô cùng hoan hỉ khi phần lớn các lính Công giáo đã chối đạo. Tuy nhiên, những người chối đạo này lại bị lương tâm cắn rứt, suốt đời ăn năn, hối hận.

Có người khóc lóc mỗi khi đi xưng tội, kể cả khi đã 40 năm sau. Có người thậm chí còn nói với cha truyền giáo rằng ông hối hận vì đã đạp thánh giá Chúa, và vì vậy, ông không dám phạm tội nào khác nữa.

Sự kiện này đã cho thấy sức mạnh của đức tin và lương tâm con người.

Trong số 500 lính Công giáo, có 15 người kiên quyết không bước qua thập giá, tuyên xưng mình là Kitô hữu. Họ bị đánh đập, tra tấn, bị bỏ đói, và bị ép buộc bởi bạn bè, vợ con, và những người lính đã bỏ đạo.

Tuy nhiên, 15 người này vẫn kiên trung với đức tin của mình. Họ bị lôi qua thập giá, bị đánh đập rất đau đớn. Sáu người trong số họ đã không chịu được nữa, xin bỏ đạo.

Sự kiện này đã cho thấy lòng dũng cảm và đức tin kiên trung của những người Công giáo Việt Nam trong thời kỳ bách đạo.

Trong số 15 người kiên quyết không bước qua thập giá, chỉ còn lại chín người. Trong số chín người này, ông Augustinô Huy là người can đảm nhất.

Ông Huy đã xưng đạo ra hai lần, nhưng vẫn cảm thấy tội lỗi vì đã có hai vợ. Ông tìm cách hối lộ để về nhà giải quyết vấn đề gia đình và gặp cha xứ để xưng tội.

Ông gặp Cha Thiều, người đang làm phúc tại họ Phú Đường gần nhà ông. Cha Thiều buộc ông phải làm tờ giấy bỏ vợ hai. Cha cũng an ủi ông và khuyên ông vững lòng chịu khổ vì đạo.

Ông Huy vâng lời Cha Thiều. Sau khi chịu các phép bí tích, sáng ngày hôm sau, ông trở lại nhà giam để chuẩn bị cho cuộc xưng đạo thứ ba.

Ngày ấy, chín người lính Công giáo lại bị điệu ra trước tòa. Quan Trịnh Quang Khanh lại dùng mọi cách để dụ dỗ họ bỏ đạo, nhưng chỉ có năm người kiên quyết không chịu.

Quan Trịnh Quang Khanh tức giận, truyền cho quân lính đánh họ rất tàn nhẫn. Họ bị đánh nát cả thịt, búa đập vào ngón tay, và nhiều hình phạt khác. Họ đau đớn vô cùng, nhưng vẫn không chịu bỏ đạo.

Quan Trịnh Quang Khanh không muốn giết họ, chỉ muốn họ bỏ đạo. Nhưng với đức tin kiên trung, họ đã sẵn sàng chịu mọi đau khổ, thậm chí là cái chết.

Sau khi tra tấn năm người lính Công giáo, quan Trịnh Quang Khanh thất bại trong việc lay chuyển họ. Ông ta bực mình, nguyền rủa họ và truyền tống giam họ vào ngục.

Vì thất bại trong việc diệt trừ đạo Công giáo, quan Trịnh Quang Khanh bị vua khiển trách và cất chức tổng đốc Nam Định. Ông bị giáng cấp xuống tuần phủ.

Ngày 12 tháng 4 nhuận năm ấy, ông Lê Văn Đức đang làm tổng đốc Sơn Tây, được cử làm tổng đốc Nam Định. Ông Lê Văn Đức cũng theo lối của Trịnh Quang Khanh, bắt năm người lính Công giáo phải bỏ đạo. Tuy nhiên, ông Huy và các bạn vẫn cương quyết trung thành với Chúa.

Ngày 25 tháng 6 năm 1838, tại tỉnh Nam Định, quan truyền xử tử Đức Cha Minh và Thầy Phanxicô Chiểu. Quan cũng truyền đem cả năm người lính Công giáo đi nữa, giả cách như phải xử tử cùng với hai đấng kia.

Mục đích của quan là để năm người lính sợ chết mà bỏ đạo. Tuy nhiên, họ vẫn không sợ mà lại vui mừng, vì tưởng rằng giờ tử đạo của mình đã đến.

Các quan thấy họ vui mừng, lại càng ngạc nhiên, không hiểu tại sao họ lại muốn được chết vì Chúa. Quan lại truyền điệu họ về ngục như cũ.

Khi biết mình không được chết vì đạo, họ lại buồn hết sức.

Sáng ngày 26 tháng 6, quan tổng trấn Nam Định lại truyền năm người lính Công giáo phải hầu tòa. Ông ta dùng mọi cách để ép họ bỏ đạo, nhưng họ vẫn kiên quyết giữ vững đức tin.

Quan tổng trấn tức giận, truyền đánh đập họ rất tàn nhẫn. Các ông bị đánh đến sưng mặt mũi, máu chảy đầm đề. Dù bị hành hạ đau đớn, họ vẫn không chịu bỏ đạo.

Thấy mình thất bại, quan tổng trấn càng giận dữ. Ông chửi bới thậm tệ, và truyền cho lý hình đánh các ông cho tới khi nào họ chịu bỏ đạo thì thôi.

Quan tổng trấn đã hành hạ họ trong hơn một tuần lễ, nhưng vẫn vô ích.

Một ngày nọ, quan tổng trấn truyền cho lý hình buộc gông nặng vào cổ năm người lính Công giáo, rồi kéo họ qua thập giá. Các ông nhất định giơ chân lên, không chịu đạp vào thập giá.

Quan tổng trấn tức giận, truyền cho lính đánh đập các ông vào chân. Các ông đau đớn vô cùng, nhưng vẫn không chịu bỏ đạo.

Cuối cùng, các ông không còn sức để giữ chân co lên nữa, buộc phải hạ thấp chân và đạp lên thập giá. Quân lính reo hò: "Đã quá khóa rồi."

Quan án thấy hai ông Siêu và Dụ chịu không nổi, bèn truyền không hành hạ nữa. Ông hỏi: "Sau cùng, các ngươi đã tuân lệnh nhà vua chưa?"

Hai ông Siêu và Dụ vừa đau đớn, vừa sợ hãi, bèn nói: "Quan lớn dậy thế nào thì chúng tôi xin vâng."

Quan án hỏi ba ông Huy, ông Thể và ông Đạt: "Các ngươi có bỏ đạo không?"

Ba ông đều kiên quyết trả lời: "Quan lớn dạy việc gì khác chúng tôi xin vâng, còn bỏ đạo thì chúng tôi không bỏ."

Quan án tức giận, truyền giam ba ông vào ngục thất và đeo xiềng, đóng gông nặng hơn nữa.

Thấy hai bạn đã bỏ đạo, ông Huy, ông Thể và ông Đạt càng ăn chay đánh tội nhiều hơn nữa để xin ơn bền vững.

Hai ngày sau, quan thượng truyền dẫn ba ông vào dinh và truyền cho ba ông phải bỏ đạo. Ba ông kiên quyết từ chối.

Quan thượng muốn biết các ông theo đạo và sống đạo thế nào, bèn truyền cho ba ông đọc kinh trước mặt quan. Ba ông đọc kinh rất sốt sắng và giảng giải về lẽ đạo cho quan. Quan lắng nghe, nhưng khi giảng tới đoạn không vừa ý quan, ông liền truyền quân lính vả vào miệng ông Huy.

Sau đó, quan thượng lại truyền ba ông phải bỏ đạo. Ba ông cương quyết từ chối. Quan thượng lại truyền quân lính khiêng các ông qua tượng thánh giá và đánh dữ tợn hơn lần trước, đánh đến nỗi chân các ông đầy máu me. Khi chân các ông chạm vào thánh giá, quân lính hô lên: "Quá khóa rồi, quá khóa rồi."

Lúc đó ông Huy, đại diện hai ông kia kêu lên: "Quan lớn dậy đánh đòn cùng kéo ép chúng tôi, có lẽ nào mà nói chúng tôi đã quá khóa được ru?"

Tức thì quan thượng truyền cho lính đánh đòn ba ông Huy, ông Thể và ông Đạt. Ông Thể bị đánh 20 roi, ông Đạt bị đánh 30 roi, còn ông Huy bị đánh 40 roi ngay hôm đầu. Có chứng nhân nói rằng trong ba ngày liên tiếp, mỗi ông bị đánh chừng 130 trượng.

Một hôm, các quan lấy nhiều lý lẽ khuyên ba ông bỏ đạo. Ông Huy đại diện anh em thưa rằng: "Bẩm quan lớn, nếu chúng tôi bỏ đạo Thiên Chúa thì chúng tôi sẽ theo đạo nào, vì trong các đạo khác chẳng có đạo nào là đạo thật."

Quan thượng nghe thế liền nói: "Nếu ngươi bảo đạo chúng bay là đạo thật, sao vua nghiêm cấm đạo ấy?"

Ông Huy trả lời: "Bẩm quan lớn, đạo Thiên Chúa là đạo thật, nhưng vua nghiêm cấm đạo ấy vì vua chưa hiểu rõ đạo ấy. Nếu vua hiểu đạo ấy, thì vua sẽ không cấm đạo ấy."

Quan thượng nghe thế lại nói nhiều điều phạm thượng tới đạo Công Giáo. Ông Huy lại có dịp cắt nghĩa lẽ đạo cho các quan, cùng bẻ các lý lẽ mà quan đã nói. Thất bại về tranh biện với ba ông, quan thượng lại truyền đánh đập và phạt các ông.

Vào những buổi trưa hè nóng bức, ba ông Huy, ông Thể và ông Đạt bị cạo trọc đầu, cổ mang gông, chân tay xiềng xích, phơi nắng trước cổng dinh. Họ chịu đựng nỗi đau đớn cả về thể xác lẫn tinh thần.

Giữa lúc đó, họ bị các bạn hữu, các bạn đồng đội theo lệnh quan thượng khuyên nhủ bỏ đạo. Quan lại còn thưởng cho những tín hữu bỏ đạo, hay thăng cấp. Điều này càng làm cho họ dễ bị lung lạc.

Có lần, vợ ông Đạt đến khóc lóc và dùng đủ mọi cách để chồng dẫm lên thánh giá. Ông Đạt đã đủ can đảm trách mắng vợ và cấm bà lần sau không được đến gặp ông nữa.

Các ông vẫn bị phơi nắng từ ngày này sang ngày khác. Lần kia, có một người tín hữu thấy ông Huy bị phơi nắng khổ sở, liền lấy quạt che cho ông. Ông Huy cám ơn bà và nói với bà: "Chúa để chúng tôi chịu sự khốn khó để đền tội chúng tôi. Tôi xin bà đừng che nắng cho tôi."

Trong ngục tù, ba ông Huy, ông Thể và ông Đạt vẫn giữ vững đức tin và lòng kiên trung.

Các ông ăn chay hãm mình bốn lần một tuần, dù đồ ăn trong ngục đã ít oi. Các ông còn hy sinh để giúp cho những tù nhân khác.

Các ông cầu nguyện không ngừng và xin các bổn đạo khi đến thăm: "Xin các ông các bà cầu cho chúng tôi để chúng tôi bền vững, vì chúng tôi biết chúng tôi rất yếu đuối."

Quan thượng là người học rộng, thông minh, nhưng lại tranh luận thua ba ông Huy, ông Thể và ông Đạt.

Ông Huy đã trả lời rất đúng và khúc chiết những câu hỏi của quan thượng về bí tích giải tội và hôn phối. Ông thường nói về mục đích của Chúa ban phép bí tích, sự thánh thiện của bí tích, sự thánh thiện của nghi thức đi kèm với bí tích.

Về bí tích giải tội, ông Huy nói nếu giải ban đêm là vì trong thời cấm đạo. Còn bình thường các cha giải tội ban ngày.

Quan thượng thấy ông Huy đối đáp khôn khéo, sợ ông nghe được những lời khen ngợi của mọi người xung quanh, nên truyền đuổi ông ra ngoài.

Sự kiện này cho thấy quan thượng đang lo sợ trước sự kiên trung và trí tuệ của ông Huy. Ông biết rằng nếu để ông Huy ở lại, ông sẽ tiếp tục thuyết phục mọi người, khiến cho đạo Công giáo ngày càng được lan rộng.

Một ngày kia, quan lại hạch hỏi và tranh luận với ông Huy về quá khứ đời tư của ông. Quan lại muốn làm ông chán nản, bèn nói: Nếu như có ai từ trước tới nay sống đời đạo đức mà muốn chết vì đạo thì còn hiểu được; còn như ông, trong quá khứ đã sống như người ngoại, có hai vợ, sống dường như không phải là bổn đạo; mà bây giờ ông cứ giữ luật Kitô hữu, thì quả là điên khùng, không thể chấp nhận được.

Ông Huy khiêm tốn thừa nhận rằng ông đã sống đời sống Kitô hữu như gương mù, theo tính xác thịt, theo sự yếu đuối của mình. Nhưng ông đã ăn năn hối cải, bỏ vợ hai và theo đạo Công giáo một cách chân thành. Ông đã bỏ mọi sự, kể cả mạng sống, để giữ đạo.

Quan thượng không lay chuyển được ông Huy bằng lý lẽ, nên đã dùng bạo lực. Ông bắt lính kéo ông Huy qua thánh giá, dùng roi đánh chân ông để bắt ông chạm vào thập giá. Ông Huy vẫn kiên cường và trả lời: "Các ngươi dùng võ lực lôi thân xác ta, các ngươi cố dùng sức lực lôi chân ta, nhưng các ông có dùng sức mạnh để lung lay ý chí ta được không? Bao lâu ta không chịu, thì dù có đánh đập các người cũng không đạt được mục đích đâu!"

Lòng tin và lý luận của ba ông Huy, ông Thể và ông Đạt đã phần nào làm cho quan tổng trấn Lê Văn Đức phải cảm động.

Quan nói: "Các ngươi làm cho ta thấy tội nghiệp các ngươi quá. Ta không muốn hành hạ các ngươi hơn nữa. Dù ta có hành hạ các ngươi thế nào, các ngươi cũng không bỏ đạo và bước qua thập giá. Tôn giáo của các ngươi là tôn giáo gì vậy? Hãy nói đi ta muốn nghe các ngươi nói."

Ông Huy đã cắt nghĩa cho quan tổng trấn Lê Văn Đức về mười điều răn Chúa Trời và bảy phép bí tích. Quan tổng trấn cảm động và ngạc nhiên trước đạo lý của đạo Công giáo. Ông ta ca ngợi đạo Công giáo và xin lỗi ba ông Huy, ông Thể và ông Đạt. Ông ta nói: "Tôi không biết tôi có còn ở đây lâu nữa không. Nếu tôi trở về triều đình, mà các ông phải chịu chết vì đạo các ông, xin hãy nhớ tới tôi và xin làm ơn đừng báo thù tôi."

Đến tháng chín, có tin đồn ba ông Huy, ông Thể và ông Đạt sẽ bị xử tử. Các ông rất vui mừng. Các ông nhắn tin cho vợ con lên tỉnh để được giã từ lần cuối. Lúc đó, cha Năm, ông trùm Đích và ông lý Mỹ cũng bị giam gần đó. Các bà cũng vào thăm các ngài. Cha Năm bảo các bà: "Hôm nay không biết ba ông binh sống chết thế nào, song chắc các ông còn phải chịu nhiều sự khốn khó nữa. Cụ gần đến ngày chịu chết rồi, dù cụ là thầy cả mặc lòng cũng nghĩ rằng mình khó mà có thể chịu đựng vì Chúa như ba ông binh."

Cùng ngày hôm ấy, ba ông bị điệu vào hầu quan. Quan lại cho đánh đòn các ông cho đến nỗi trong mình chẳng có chỗ nào lành. Tuy nhiên, các ông vẫn không chịu quá khóa. Quan lại đành giam các ông vào ngục thất. Khi trở lại ngục thất, cha Năm hỏi: "Sao, hôm nay chúng con được trận hay thua?"

Cả ba ông đều trả lời cha: "Chúng con chẳng chịu quá khóa lúc nào, mà chỉ trông được chịu chết vì đạo, vì quan lớn đã dậy làm án xử cho chúng con rồi."

Vua Minh Mệnh không muốn giết ba ông Huy, ông Thể và ông Đạt. Ông ra chiếu chỉ truyền cho các quan phải tìm mọi cách để khuyên dụ ba ông bỏ đạo.

Các quan vâng theo chiếu chỉ của vua, đóng gông đem ba ông ra cửa thành cho dân chúng xỉ vả. Họ cũng giả cách chặt ngang lưng ba ông để làm cho họ sợ hãi.

Ba ông Huy, ông Thể và ông Đạt vẫn kiên trung với đạo Công giáo. Họ không chịu quá khóa.

Tháng 10 năm 1838, quan tổng trấn Trịnh Quang Khanh phục chức tổng trấn Nam Định. Ông cũng đệ án xin nhà vua xử tử ba ông.

Vua Minh Mệnh vẫn không đồng ý. Ông quở trách quan tổng trấn Trịnh Quang Khanh: "Mày không bảo được ba thằng lính phàm hèn, mà cai quản cả tỉnh thế nào được."

Ba ông Huy, ông Thể và ông Đạt bị điệu ra ngoài thành cho xỉ vả liên tiếp 21 ngày. Sau đó, họ bị giam vào ngục và bị hành hạ, dụ dỗ. Quan Trịnh Quang Khanh cũng bắt anh em họ hàng và lý dịch của ba ông vào để dụ dỗ. Nhưng ba ông vẫn kiên trung với đạo Công giáo.

Quan Trịnh Quang Khanh tức giận, chửi các lý dịch và huynh thứ: "Tại chúng mày, mà ba thằng này bất trị". Các lý dịch và huynh thứ rất sợ hãi, xin khất quan một tháng để khuyên bảo ba ông. Các ông cũng xin quan thượng đừng giam chung với nhau, xin giam mỗi người một nơi để dễ dàng khuyên bảo. Quan thượng ưng cho khất một tháng và giam ba ông riêng biệt.

Hết hạn một tháng, quan Trịnh Quang Khanh nghĩ chắc ba ông Huy, ông Thể và ông Đạt đã mềm lòng. Ông liền truyền điệu các ông đến. Nhưng ba ông vẫn kiên trung với đạo Công giáo.

Quan thấy vậy, ông truyền nọc đánh một người huynh thứ xã Kiên Trung. Ông Thể thấy người huynh thứ bản xã bị đánh đòn thì thương hại, ông thưa với quan rằng: "Lạy quan lớn, xin quan lớn tha cho, quan lớn dậy thế nào con xin vâng."

Quan bảo ông quá khóa, ông đành vâng theo. Các quan thấy ông Thể đã quá khóa thì vỗ tay reo mừng, liền tháo gông bẻ xiềng cho ông.

Sau đó, các quan xúi giục ông Huy và ông Đạt bắt chước ông Thể. Một quan nói với ông Đạt: "Mày cứ bắt chước tên Thể mà bước qua thập tự, khi trước cả ba tên đều hợp lực bất kháng, bây giờ tên Thể đã vâng lời vua, sao mày còn cứng cổ."

Bấy giờ ông Đạt cũng chiều lòng các quan mà bước qua thập tự.

Ông Huy vẫn kiên trung với đạo Công giáo, dù hai bạn đã quá khóa. Các quan vẫn không thất vọng, cố tìm cách dụ dỗ ông.

Đêm đó, một quan sai người vào phòng ông Huy dụ dỗ: "Chú phải vâng lời vua như hai ông kia, thì chẳng ai cười chê chú được. Vì chú đã chịu khó vững vàng hết sức rồi. Vua chẳng muốn giết chú, mà cũng chẳng muốn tha chú nếu chú không quá khóa, nếu chú bước qua một lần mà thôi thì khỏi mọi sự rầy rà này." Ông Huy đành vâng theo.

Sau khi ông Huy chối đạo, quan phát cho mỗi ông 10 quan tiền rồi thả các ông về nhà.

Dòng dã tám tháng trời, ba ông binh chịu cực hình và dụ dỗ bỏ đạo mà vẫn trung kiên. Tin ba ông chối đạo khiến nhiều người không tin, cho rằng họ bị bùa ngải làm mê loạn.

Từ khi chối đạo, lương tâm ba ông cắn rứt. Họ bàn bạc với nhau và quyết định lên tỉnh xưng đạo.

Tại dinh quan, ba ông lạy quan và thưa rằng: "Đạo Thiên Chúa là đạo thật, Chúa chúng con thờ là đấng cao cả phép tắc vô cùng. Chúng con đã dại dột mà chịu quá khóa, mất nghĩa cùng Chúa chúng con. Nay chúng con xin giả tiền lại cho vua và quan lớn, cùng xin giữ đạo Thiên Chúa cho thật lòng."

Quan tổng trấn Trịnh Quang Khanh tức giận khi nghe ba ông binh xưng đạo. Ông giam các ông vào ngục và truyền cho lính dụ dỗ. Tuy nhiên, ba ông vẫn một lòng trung kiên.

Quan tổng trấn không biết phải làm thế nào vì ông đã tâu về triều đình rằng ba ông đã quá khóa. Ông đành truyền cho lý dịch ba xã đến nhận tiền thay vì các ông, rồi đuổi ba ông về làng.

Ba ông buồn rầu ra về, nhưng lòng vẫn không yên trí. Họ chỉ ao ước được chết vì đạo Chúa. Họ càng gia tăng việc cầu nguyện, ăn chay hãm mình và làm việc phúc đức để mong được chết vì đạo.

Ba ông bàn bạc với nhau: "Nếu quan thượng không cho chúng ta chết vì đạo, thì chúng ta sẽ vào kinh tâu xin nhà vua cho chúng ta chết vì đạo, để sửa lại gương mù gương xấu chúng ta đã làm."

Ông Huy nói: "Nếu các ông không đi thì tôi đi một mình."

Ông Thể nói: "Nếu ông đi, tôi cũng đi với ông."

Ba ông binh Huy, Thể và Đạt bàn với Cha Tuyên về quyết định vào kinh xưng đạo. Họ cho biết mình bỏ đạo chỉ vì thương cha mẹ, anh em và huynh thứ trong làng. Sau khi quá khóa, họ cảm thấy hối hận nên đã xưng đạo lại trước mặt quan tổng trấn. Tuy nhiên, việc này chỉ có quan tỉnh biết, còn triều đình và nhà vua thì không hay biết gì cả. Vì vậy, họ muốn đến gặp nhà vua, và xưng đạo công khai trước mặt người. Như thế mọi người sẽ biết họ bước qua thập giá vì sự yếu đuối của họ, chứ không phải vì muốn nghe lời nhà vua mà chối bỏ đạo.

Cha Tuyên viết thư hỏi ý kiến Ðức Cha Marti. Trong thư, Cha Tuyên cũng kể cho Ðức Cha Marti biết trong thời gian các ông đang cư ngụ tại nhà người, người cũng được thư của Cha Jimeno. Cha Jimeno rất vui mừng và tin rằng Ðức Chúa Trời sẽ giúp đỡ ba ông binh.

Cha Tuyên đọc thư này cho cả ba ông nghe và họ nhất định vào đền vua. Ông Huy còn xin sao bản thư đức cha để sau này xem lại. Sau đó ba ông bàn với nhau phải vào kinh như thế nào.

Ba ông binh Huy, Thể và Đạt bàn bạc về kế hoạch vào kinh xưng đạo. Ông Đạt đề nghị hai ông Huy và Thể đi trước, còn ông sẽ ở lại tỉnh để ứng vụ. Ông Huy và ông Thể đồng ý và về nhà từ giã gia đình, bạn bè. Họ cũng đi xưng tội chịu lễ để dọn mình.

Đầu tháng 3 năm 1839, hai ông Huy và Thể cùng con trai ông Huy vào kinh. Họ trọ tại nhà một người bổn đạo tên là bà Tam. Ở đây, họ ăn chay cầu nguyện, dọn mình để vào kinh xin chịu tử vì đạo.

Hai ông đệ đơn lên tòa tam pháp. Quan tòa nhận đơn nhưng không tra hỏi gì thêm. Hai ông chờ đợi một thời gian, nhưng chẳng ai hỏi gì tới việc xưng đạo của họ. Họ lại viết đơn khác gửi tới quan tòa, khẳng định rằng họ quá khóa tại tỉnh Nam Định vì bị quan Trịnh Quang Khanh ép buộc, chứ không phải vì lòng thật muốn bỏ đạo.

Hai ông Huy và Thể đệ đơn lên tòa tam pháp, nhưng không được xét xử. Họ sấp mình xuống bên lề đường, đệ đơn lên vua Minh Mệnh. Nhà vua truyền giam họ vào ngục, rồi truyền các quan thuộc hình bộ, lễ bộ, và binh bộ tra xét và làm mọi cách cho họ bỏ đạo. Tuy nhiên, dù làm thế nào, hai ông vẫn trung kiên.

Các quan hỏi về ông Đạt, thì hai ông thưa rằng: "Ông ấy cũng chẳng chịu quá khóa, mà vì mắc trở việc tại tỉnh Nam Định, nên chẳng đi với chúng tôi được, song ông ấy cũng hợp một ý với chúng tôi. Ông ấy còn dặn rằng, anh em thế nào thì tôi thế ấy."

Các quan trình tâu nhà vua, nhà vua lấy làm ngạc nhiên lắm, nhưng vẫn hy vọng có thể thay lòng đổi dạ hai ông. Nhà vua truyền ba quan lớn hợp lực làm thế nào cho hai ông quá khóa, nhưng cũng vô ích.

Cuối cùng, nhà vua truyền các quan đem ra 10 nén vàng, một tượng thánh giá, và một thanh gươm, rồi nói: "Mặc ý các ngươi chọn. Nếu bước qua thập giá thì sẽ được thưởng 10 nén vàng, còn nếu không sẽ bị thanh gươm chặt ngang lưng làm hai rồi bỏ xác xuống biển."

Hai ông Huy và Thể đều chọn thập giá, xin chịu chết.

Một số quan lại trình bày lên vua Minh Mệnh rằng có hai người lính tỉnh Nam Định tên Phạm Viết Huy và Bùi Đức Thể vẫn theo đạo Công giáo mặc dù đã phải bước qua thập tự giá năm trước do bị cưỡng ép, giờ vẫn xin giữ đạo. Sau khi các quan khuyên giải nhiều lần nhưng họ vẫn quyết giữ đạo và chịu chết, vua Minh Mệnh rất tức giận, ra lệnh chém ngang lưng hai người rồi quẳng xuống biển, đồng thời truyền tra xét thêm về một người khác tên Định Đạt xem có thực sự bỏ đạo hay không để tâu lên.

Ngày 12 tháng 6 năm 1839, ông Huy và ông Thể bị điệu ra cửa biển Thuận An để chịu tử hình. Trên đường đi, hai ông vẫn vui vẻ chào hỏi mọi người, khiến dân chúng rất ngạc nhiên. Đến nơi, quan cho hai ông xuống thuyền chèo ra khỏi đất liền. Lúc này, quan còn khuyên hai ông bỏ đạo để được tha nhưng hai ông nhất quyết không theo. Quan ra lệnh tháo gông, trói hai ông vào cột chèo. Hai ông đọc kinh phó linh hồn. Lý hình giơ gươm lên, chém ngang lưng hai ông, rồi chặt đầu, bổ làm tư và ném xác xuống biển.

Được tin hai ông Thể và Huy bị xử tử, ông Ðạt ở nhà thu xếp công việc, đọc kinh nguyện ngắm để chuẩn bị cho cái chết. Mấy ngày sau, lính hàng đội từ tỉnh xuống báo cho ông Ðạt rằng ông đã bị kết án tử hình. Ông Ðạt vui mừng đón nhận tin ấy, liền đi báo cho anh em và từ giã mọi người. Ông cũng xin mọi người cầu nguyện cho ông. Vợ ông muốn khuyên chồng bỏ ý định chết vì đạo, khóc lóc than vãn và dẫn con gái đến xin ông: "Ông bỏ tôi cùng con bé này sao?”

Ông Đạt rất cảm động trước sự năn nỉ của vợ và con gái, nhưng ông nói nếu ông quý vợ con hơn Chúa thì không xứng đáng, Thiên Chúa sẽ lo cho họ. Sau cùng ông bảo vợ sang nhà Nhiêu Quang để ông gặp con lần cuối. Rồi ông đi chịu lễ, cám ơn và giã từ vợ con cùng anh em, theo lính ra đình làng. Ở đình, quan viên và dân làng đã tụ tập đông đủ để tiễn ông. Ông lạy xin các quan cầu nguyện cho mình. Có người nói ông bỏ vợ con quê hương, ông trả lời gia đình và quê nhà ông giao phó thánh ý Chúa, xin làng thương vợ con ông.

Khi trên đường về tỉnh, ông Đạt chỉ đọc kinh và lần hạt chuẩn bị tinh thần cho cái chết. Vợ ông vẫn đi theo và khóc lóc. Ông bảo vợ quay về và nếu cứ khóc thì đừng đến thăm ông nữa. Ở tỉnh, quan lớn nói hai người kia đã bị chém và quẳng xuống biển, hỏi ông Đạt có sợ không. Ông trả lời hai người may mắn được phúc lớn, xin quan cho ông cũng được như vậy, không chịu bỏ đạo. Quan liền truyền đóng gông giam ngục. Đến ngày 18/7/1839, vua truyền xử giảo ông. Quan khuyên nhủ nhưng ông vẫn không chịu, nên bị viết thẻ xử giảo vì cố chấp theo Công giáo, không tuân quốc pháp.

Sau khi viết thẻ xử giảo, quan truyền giao ông Đạt cho quan giám sát đưa đi xử. Trên đường đi ông chỉ đọc kinh cầu nguyện. Đến nơi, ông quỳ trên chiếu cạp vẫn tiếp tục đọc kinh. Một lúc, quan truyền tháo gông, bắt ông nằm xuống chiếu rồi quân lính buộc dây vào cổ. Khi đã sẵn sàng, quan ra hiệu lệnh. Lý hình kéo dây cho tới chết. Làng Phú Nhai đưa thi hài ông về an táng trọng thể nhà anh cả, sau đó hài cốt được chôn cất tại nhà thờ Phú Nhai. Ngày 27/5/1900, Giáo hoàng Lêô XIII phong ông Đạt cùng hai người kia làm Chân Phước, đến 19/6/1988, Giáo hoàng Gioan Phaolô II tôn phong các ông lên bậc Hiển thánh.

Xin chào! Bạn đã xem qua một bài viết có tiêu đề Thánh Augustinô Phan Viết Huy (1795-1839) - Các Thánh Tử Vì Đạo tại Việt Nam của tác giả Vũ Lê Huân. Trong trường hợp bạn muốn tìm hiểu thêm thông tin về tác giả, bạn có thể truy cập https://vulehuan.com/vi/ho-so-ca-nhan/vulehuan.html.
Tôi rất vui được chia sẻ rằng trang web của tôi hoàn toàn miễn phí sử dụng và tôi tận tâm cung cấp các tài nguyên hữu ích cho người dùng của mình. Nếu bạn thấy trang web của tôi hữu ích và muốn hỗ trợ tôi, bây giờ bạn có thể chuyển khoản ủng hộ. Các khoản đóng góp được chuyển trực tiếp vào tài khoản ngân hàng của tôi và giúp tôi tiếp tục cung cấp nội dung chất lượng.
Cảm ơn sự hỗ trợ của bạn!
Bạn cũng có thể đóng góp cho tôi bằng cách đăng ký các dịch vụ này:
Vui lòng Đăng nhập để đăng bình luận.
Tìm kiếm
Analytics
Tài liệu
Kinh ThánhKinh nguyện Công giáoThánh ca Công giáoHuấn từCác bài kiểm tra kiến thứcTiếng AnhHọc cách code
Công cụ
Thời gian ngủPomodoroYoutubeLiên Kết Dùng Một LầnTính Lãi kép (Lãi gộp)Tính tổ hợp nCrKiểm tra độ tương phảnChisanbop FingermathBản lưu Google
Blog của Vũ Lê Huân
CNTT & Phần mềmLập trìnhKỹ năngTrải nghiệmGiáo hội Công giáo Rôma
Danh mụcĐăng nhập