Anrê Tường, thầy giảng, sinh năm 1812 tại Ngọc Cục, Nam Định, tử đạo ngày 16 tháng 6 năm 1862 tại Làng Cốc. Ngài được Giáo hội Công giáo Rôma phong Á thánh năm 1951 và được tôn phong hiển thánh ngày 19/06/1988.
Tuy nhiên, trong trường hợp của thánh Anrê Tường, chúng ta không thấy ghi lại phép lạ nào, tài liệu để lại quá ít, chỉ diễn tả mấy nét sơ sài về cuộc đời và đạo hạnh của ngài. Vậy làm sao chúng ta có thể hiểu rõ nét về con đường tu đức của ngài để noi theo?
Có cảm giác như ngài là một vị thánh vô danh, vì chúng ta biết rất ít về ngài.
Lễ kính thánh Anrê Tường vào ngày 16 tháng 6 hàng năm.
Chứng từ cho Tin Vui đạo Chúa không phải chỉ ở trong những lời nói hay hành động lớn lao, mà còn ở trong những điều bình dị nhất của cuộc sống hàng ngày. Chứng từ của các ngài vượt trên chữ viết hay tài liệu. Đức tin mới là cốt lõi, coi thường mọi sự, kể cả mạng sống mình.
Anrê Tường sinh năm 1812 tại xứ Lục Thủy, Nam Định. Cha mẹ ngài là ông bà Đaminh Tiên và Maria Gương. Ngài lớn lên, lập gia đình và có đông con cái. Ngài chu toàn bổn phận giáo dục gia đình trong nếp sống bình lặng, sống đời Công giáo đạo đức cũng rất bình lặng.
Anrê Tường bị bắt vào ngày 14 tháng 9 năm 1861, lúc 50 tuổi, cùng với các ông Đaminh Nguyện 60 tuổi, Vinh Sơn Tường 48 tuổi, Đaminh Mạo 44 tuổi và Đaminh Nhi 40 tuổi. Ban đầu, các ngài bị tra tấn và giam giữ tại Xuân Trường, sau đó bị đày đến làng Bạch Cốc, Vụ Bản, một làng ngoại giáo.
Theo lời khai của Đa Minh Mậu, con rể của thánh Anrê Tường, thì trong ba bốn lần ông đến thăm, ông đều thấy các ngài siêng năng đọc kinh, nhất là kinh Mân Côi, kinh các thiên thần, và ăn chay ba lần một tuần.
Suốt chín tháng bị giam tù, các ngài bị hành hạ rất nhiều. Ban ngày, họ bị đeo gông nặng và đêm phải cùm chân. Trên má phải của họ bị khắc chữ "Tả Đạo", và họ bị bắt đạp ảnh bỏ đạo. Nhưng các ngài vẫn kiên quyết: "Các quan coi chúng tôi như trẻ con sợ hãi hình khổ hơn là sợ xúc phạm đến Thiên Chúa sao?"
Quan thấy các ngài không chịu bỏ đạo, liền cho thi hành án xử. Ngày 16 tháng 6 năm 1861, các ngài bị đưa ra pháp trường chém đầu.
Theo nhân chứng, trước khi bị hành hình, các ngài đã đọc kinh Ăn năn tội, kinh Phó Dâng, và xin lý hình chém ba nhát để kính Chúa Ba Ngôi.
Xác các ngài được chôn ngay tại nơi xử, sau này được cải táng về làng Ngọc Cục.
Anrê Tường sống vào thời kỳ bắt đạo tàn ác nhất trong lịch sử Giáo hội Việt Nam. Do bị người Pháp áp đảo, vua Tự Đức ra những sắc lệnh tàn ác nhằm tiêu diệt đạo Công giáo.
Năm 1851, vua Tự Đức ra sắc lệnh buộc các quan và lính Công giáo phải bỏ đạo. Các quan có một tháng để thực hiện, còn lính có sáu tháng. Nếu không bỏ đạo, họ sẽ bị mất mọi quyền lợi, không được thi cử và làm việc nước. Ngoài ra, họ còn bị đày lên vùng thượng du nước độc.
Năm 1859, vua Tự Đức ra sắc lệnh trả thù người Công giáo, vì nghi ngờ họ thông đồng với người ngoại quốc trong vụ tàu Pháp tấn công vào cửa Đà Nẵng.
Sắc lệnh quy định:
Năm 1861, vua Tự Đức ra sắc lệnh tàn ác nhất đối với người Công giáo. Theo sắc lệnh này,
Quả thực, những sắc lệnh trên đã tàn phá Giáo hội Việt Nam một cách khủng khiếp. Đức cha Liêu (Retord) đã phải thốt lên: "Ôi buồn thảm thay Giáo hội Việt Nam! Tôi đang ngồi trên đống gạch nát của những thánh đường, như tiên tri Giêrêmia ngồi trên đống gạch vụn đền thờ Giêrusalem.”
Nhiều người đã chết trên miền rừng sâu nước độc, không để lại dấu tích gì. Con số 130 ngàn người tử đạo chỉ là con số ước tính. Trong thời kỳ này, có tới 400 ngàn người bị phân tán lưu đày, 35 ngàn người chết vì đạo, 115 linh mục bị xử tử, 80 tu viện Mến Thánh Giá bị phá, 100 nữ tu Mến Thánh Giá chết vì đạo.
Như vậy, thánh Anrê Tường cũng đúng là một vị thánh tiêu biểu cho cả hơn một trăm ngàn người vô danh đã chết vì đạo. Không cần ai biết đến, không cần ai viết sách ca tụng, ngài vẫn mãi mãi là một người nhỏ bé nhất trong danh sách các thánh được tôn phong. Nhưng kẻ nhỏ nhất trong nước Trời cũng còn lớn hơn Gioan Tẩy Giả, như lời Chúa đã nói trước.
Cũng như có biết bao cử chỉ, tâm tình, hành động trong đời, đâu có phải không được ghi chép ra là không có giá trị lớn lao. Một nụ cười bao dung, một cái nhìn cảm thông, một bàn tay vỗ vỗ an ủi... tất cả đều là những tác phẩm tuyệt vời, mắc tiền hơn bất cứ tuyệt tác nào của Michelangelo, Leonardo da Vinci, Vincent van Gogh.
Chứng nhân cho Tin Mừng không chỉ nằm trong những bài giảng hay văn bản. Chứng nhân đích thực là những người sống Tin Mừng trong cuộc sống bình thường hàng ngày. Họ coi trọng đức tin hơn mọi thứ, kể cả mạng sống của chính mình.
Vậy thì việc tôn phong các thánh đúng là một món quà vô giá nhất dành cho mỗi người. Từ nay, chúng ta biết cách khai thác kho tàng quý giá đã được chôn giấu trong lòng mỗi người, chỉ cần có con mắt đức tin là có thể nhìn thấy được. Đây chính là con đường ngắn nhất, dễ nhất và sẵn sàng nhất, ai cũng có thể bước theo, ai cũng có thể nên thánh được. Và từ nay, chúng ta bắt đầu sống giàu có, với phong thái quý phái của con cái Thiên Chúa.
Tối nay, cầm tràng chuỗi trong tay đọc kinh với những kinh đơn sơ nhất, tôi cảm thấy như đang cùng với thánh Anrê Tường và biết bao bậc tiên tổ đức tin, cất lên lời ca ngợi sức mạnh của niềm tin. Dòng kinh như hơi thở qua bao đời, vẫn tiếp tục sống động và truyền sức mạnh cho đến hôm nay. Tôi chỉ cần hòa mình vào dòng hơi thở đó là nhận được tất cả sức sống để hồi sinh tâm hồn.