Thánh Vinhsơn Phạm Hiếu Liêm (Hòa Bình)
Linh mục – Ngày tử đạo: 07 tháng 11
“Xin Đức cha và Cha bề trên cầu nguyện cùng Chúa cho con, để mỗi ngày con được hoàn thiện hơn, vui lòng đón nhận những khốn khó theo Thánh ý Chúa.”
Thánh Vinhsơn Phạm Hiếu Liêm sinh năm 1732 tại Thôn Đông, làng Trà Lũ, phủ Thiên Trường, trấn Sơn Nam Hạ (nay thuộc giáo xứ Phú Nhai, Giáo phận Bùi Chu). Ngài sinh trong một gia đình đạo hạnh: thân phụ là ông Antôn Doãn – một thân hào trong thôn; thân mẫu nổi tiếng nhân đức, tận tụy dạy dỗ con cái.
Ngài vào tu lúc 12 tuổi. Nhờ thông minh và đạo đức, thầy Liêm được chọn đi học tại trường Juan de Letran ở Manila. Năm 1754, thầy khấn dòng Đa Minh và nhận tên dòng là Vinhsơn Hòa Bình. Sau khi chịu chức linh mục năm 1758, cha trở về Việt Nam, giảng dạy tại Chủng viện Trung Linh và phục vụ mục vụ tại nhiều giáo xứ như Quất Lâm, Lục Thủy, Trung Lễ, Trung Lao và vùng Lai Ổn.
Cha Liêm sống khiêm tốn, nhiệt thành với đoàn chiên, không ngừng dấn thân dù gặp nhiều nguy hiểm. Dù công việc tông đồ đạt nhiều kết quả, ngài luôn giữ tinh thần đơn sơ và khiêm nhường.
Năm 1773, dưới thời chúa Trịnh Sâm, trong bối cảnh chính quyền truy bắt tín hữu Giatô, cha Liêm bị bắt ngày 02-10-1773 tại xứ Lương Đống, cùng hai chú giúp lễ. Sau 12 ngày bị giam, ngài bị giải lên quan trấn Hưng Yên.
Trong ngục, cha Liêm gặp lại cha Jacinto Castañeda – Gia, cũng đang bị giam giữ. Cả hai bị mang gông khắc dòng chữ “Hoa Lang Đạo Sư” và giải về Thăng Long.
Tại đây, một vị quan – chú của chúa Trịnh – tổ chức “Hội Đồng Tứ Giáo”, mời đại diện Khổng, Phật, Lão và Thiên Chúa giáo tranh luận trong ba ngày về nguồn gốc con người, ý nghĩa đời sống và số phận sau khi chết.
Sau đó, mẹ chúa Trịnh Sâm cho mời hai cha đến trình bày về đạo. Khi bà hỏi về số phận người không theo đạo, cha Liêm trả lời: “Bẩm bà, sa hỏa ngục.” Bà nổi giận và thúc ép chúa ra lệnh xử tử hai vị.
Cha Vinhsơn Phạm Hiếu Liêm chịu xử trảm ngày 07-11-1773 tại pháp trường Đồng Mơ, hưởng dương 41 tuổi. Thi hài ngài được đưa về an táng tại Trung Linh.
Ngài được Đức Thánh Cha Piô X phong Chân phước ngày 20-5-1906 và được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tôn phong Hiển thánh ngày 19-6-1988.
