Sinh năm 1764 tại Trà Lũ, giáo xứ Phú Nhai (nay thuộc Giáo phận Bùi Chu), ngài được Đức cha Delgado phong linh mục năm 1798. Sau một lần bị bắt và được giáo dân chuộc về, ngài gia nhập dòng Đa Minh ngày 22/7/1807.

Cha Vinhsơn nổi tiếng nhiệt thành, can đảm và nhân từ. Ngài từng coi sóc xứ Kẻ Mốt, sau về Kẻ Sặt (Hải Dương). Dưới thời vua Minh Mạng cấm đạo gắt gao, cha ở lại giữa đoàn chiên, đi từng nhà ban đêm dâng lễ, ban ngày thăm viếng - bất chấp nguy hiểm.

Khi bị phát hiện, để tránh liên lụy cho giáo dân, ngài tự rời khỏi làng, rồi bị bắt tại Lực Điền (Hưng Yên) và giải về Hải Dương. Quan tuần phủ – vốn có thiện cảm – khuyên ngài khai là lang y để được tha. Cha đáp: “Không, tôi không phải là thầy lang. Tôi là thầy cả chuyên giảng đạo và tế lễ Thiên Chúa. Tôi sẵn lòng chịu chết vì lẽ đó, chứ không nói dối để được sống.”

Quan lại vẽ vòng tròn, yêu cầu ngài bước qua như thể bước qua Thánh Giá. Cha từ chối: “Làm như thế không khác nào tôi chối đạo.” Không lay chuyển được, quan làm sớ xin giải ngài về Nam Định – quê hương – nhưng triều đình bác bỏ và tuyên án tử hình tại chỗ.

Bản án ký ngày 20/6/1838. Trong 3 tuần giam giữ, nhờ ông lang Hàn can thiệp, cha không mang gông xiềng và được giáo hữu thăm viếng.

Sáng 30/6/1838, cha Vinhsơn tiến ra pháp trường gần họ Bình Lao, cách thành Hải Dương 1 km về phía Tây. Dáng vẻ hiền từ, thanh cao của ngài khiến nhiều người xúc động. Trước khi chịu xử, ngài quỳ cầu nguyện sốt sắng. Sau khi thi hành án, quan ban tấm vải liệm, khâu đầu vào cổ, và cho phép giáo dân Bình Lao đưa đi an táng. Tám tháng sau, hài cốt được cải táng vào nhà thờ Thọ Ninh.

Cha được Đức Thánh Cha Lêô XIII suy tôn chân phước ngày 27/5/1900, và được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II phong hiển thánh ngày 19/6/1988.