Thánh Phaolô Lê Bảo Tịnh - Linh mục (1793 - 1857) - Các Thánh Tử Vì Đạo tại Việt Nam

Phaolô Lê Bảo Tịnh sinh năm 1793 tại xã Trinh Hà, huyện Hoàng Hóa, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa, được phong Chân phước ngày 02/5/1909 và ngày 19/6/1988 được phong hiển thánh.
Thánh Phaolô Lê Bảo Tịnh - Linh mục (1793 - 1857) - Các Thánh Tử Vì Đạo tại Việt Nam

Thánh Phaolô Lê Bảo Tịnh sinh năm 1793 tại xã Trinh Hà, huyện Hoàng Hóa, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Năm 1805, lúc 12 tuổi, Ngài vào ở với cha Duệ tại xứ Bạch Phát. Sau 3 năm, Ngài được gửi vào học tại Chủng viện Vĩnh Trị. Khi mãn khóa học, bề trên cử Ngài làm giám thị và giáo sư chủng viện.

Do luôn ấp ủ mong muốn sống đời ẩn dật trong rừng, năm 1826, Ngài quyết định trốn vào rừng để ẩn tu. Ngài tìm được một hang động, ngày đêm cầu nguyện và tu hành trong đó trong vòng 1 năm.

Vào dịp Lễ Phục Sinh năm 1827, biết Ngài sẽ đi giải tội, Đức cha Jacques Longer đã chỉ thị các linh mục không được giải tội cho Ngài và phải thuyết phục Ngài quay trở về. Ngài cải trang đứng chung với giáo dân xếp hàng vào giải tội. Linh mục Pierre Eyot nhận ra và tra hỏi, nhưng Ngài trả lời rất khéo léo. Sau cùng, Ngài thú nhận thật với cha Tấn. Nghe lời khuyên của cha, Ngài nhận ra ý Chúa và quyết định trở lại chủng viện, tiếp tục học thần học và dạy tiếng Latin.

Năm 1837, Ngài được cử đi truyền giáo tại Lào. Năm 1841, khi đang giảng dạy ở xứ Kẻ Đầm, Ngài bị bắt và bị giam cầm trong 7 năm tại Hà Nội. Trong tù, ngày 24/4/1843, Ngài viết thư về an ủi các cha và chủng sinh ở Vĩnh Trị.

Năm 1847, vua Thiệu Trị giảm án xuống lưu đày chung thân ở Phú Yên. Trong khi chờ đi đày, vua qua đời, vua Tự Đức lên ngôi và ân xá cho Ngài. Năm 1848, ở tuổi 56, Ngài được phong chức Phó tế, rồi linh mục và làm Giám đốc chủng viện Vĩnh Trị.

Ngày 27/2/1857, do có đồ lễ trong trường, Ngài bị bắt. Trước khi đi, Ngài vào nhà thờ cầu nguyện và từ giã các chủng sinh. Trong tù, Ngài củng cố đức tin cho các tín hữu. 12 ngày trước khi bị xử tử, Ngài còn viết thư bằng tiếng Latin cho các chủng sinh.

Ngày 06/4/1857, bản án tử hình được thi hành tại Bảy Mẫu. Thi hài Ngài được mai táng tại Vĩnh Trị, rồi năm 1880 được cải táng về nhà thờ Chánh tòa Sở Kiện, Hà Nam.

Ngày 02/5/1909, Ngài được phong Chân phước và ngày 19/6/1988 được phong hiển thánh.