Thánh Vincentê Nguyễn Mạnh Tương sinh vào năm 1814 tại họ Phú Yên, làng Ngọc Cục thuộc tỉnh Nam Định (hiện nay là giáo xứ Ngọc Tiên, Giáo phận Bùi Chu). Bố mẹ của ngài là ông Đaminh Tiên, chức chánh trương, và bà Maria Gương.
Ông Tương đã lập gia đình và sống một cuộc đời Công giáo gương mẫu, đạo hạnh. Khi bị bắt, ông Tương đang giữ chức chánh tổng và được dân làng rất mến mộ, kính trọng.
Chỉ sau một tháng kể từ khi vua Tự Đức ban hành lệnh phân sáp, vào ngày 14/9/1861, quan phủ Xuân Trường đã áp dụng quy định trong chiếu chỉ đó, buộc các vị tử đạo gồm Nguyễn Mạnh Tương, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Đức Mạo, Nguyễn Huy Nguyên và Nguyễn Đức Nhì phải chà đạp lên ảnh tượng thánh giá và tuyên bố từ bỏ đạo Công Giáo.
Tuy nhiên, tất cả các tù nhân đều kiên quyết chịu đựng mọi hình phạt như roi vọt, tra tấn, đói khát, gông cùm, xiềng xích... để khẳng định niềm tin vào Đức Kitô. Tức giận trước sự bất khuất đó, quan phủ đày 5 người ra làng Bạch Cốc, huyện Vũ Bản, Nam Định.
Đến ngày 15/6/1862, quan lại ra lệnh buộc ông Tương phải chà đạp lên Thánh Giá nhưng vị cựu chánh tổng vẫn một lòng trung thành với Chúa. Chính vì thế, ông Tương bị tuyên án xử trảm vào ngày 16/6/1862 tại pháp trường Bạch Cốc, dưới triều vua Tự Đức.
Vị tử đạo Vincentê Nguyễn Mạnh Tương được phong chân phước vào ngày 29/4/1951 và được tôn phong hiển thánh vào ngày 19/6/1988.
Dưới thời vua Tự Đức, tại vùng đất Lục Thủy thuộc tỉnh Nam Định, giáo phận Trung Đàng Ngoài, có 13 họ đạo Công giáo nằm trong 9 làng xã. Trong đó, làng Ngọc Cục gồm 2 họ đạo là Ngọc Cục (mừng Bổn Mạng Lễ Truyền Tin) và Phú Yên (mừng Bổn Mạng thánh Vinh Sơn).
Ba ông Anrê Tường (1812), Vinh Sơn Tương (1814) và Đa Minh Nguyễn Đức Mạo (1818) thuộc họ đạo Phú Yên. Anrê Tường và Vinh Sơn Tương là hai anh em ruột, con ông Đa Minh Tiên (Trùm họ) và bà Maria Gương. Dù ông Tương nhỏ tuổi hơn anh 2 tuổi nhưng đã giữ chức Chánh Tổng. Còn ông Mạo là con ông Đa Minh Giỏi (Xã trưởng) và bà Maria Nhiên. Khi bị bắt, ông 44 tuổi và đang làm Hương quản phụ trách an ninh trật tự trong làng.
Hai ông Đa Minh Nguyên (1800) và Đa Minh Nhi (1822) thuộc họ Ngọc Cục. Ông Nguyên là con ông Đa Minh Duệ (Xã trưởng), lúc bị bắt đang làm Chánh trương xứ Lục Thủy. Con trai ông là Đa Minh Trình (35 tuổi) cũng bị bắt và tử đạo sau ông 1 ngày. Còn ông Nhi là con ông Đa Minh Vương và bà Catarina Vân, người trẻ tuổi nhất trong nhóm (22 tuổi).
Năm ông đều đã lập gia đình và là những nông dân Công giáo khá giả, tốt bụng, được dân làng kính trọng. Ông Nguyên nhờ có nghề thuốc nên thường xuyên thực hành công giáo bác ái, kể cả với anh em ngoại giáo. Không rõ trước khi bị bắt, các ông có quen biết nhau hay không. Nhưng với những điểm tương đồng về địa vị, họ đã trở thành những mục tiêu đầu tiên của chiếu Phân Sáp do vua Tự Đức ban hành ngày 5/5/1861.
Chiếu này gồm 5 nội dung: phân tán các làng Công giáo, sáp nhập họ đạo vào làng ngoại giáo, tịch thu tài sản đất đai của giáo dân, thích chữ đạo lên má và giao giáo dân cho dân quản thúc. Trong bối cảnh đó, các ông bị bắt ngày 14/9/1861. Dù bị ép phải giẫm đạp Thánh Giá nhưng các ngài vẫn kiên quyết bảo vệ đức tin Công giáo. Quan phủ tức giận đày các ông ra làng Bạch Cúc, huyện Vụ Bản để xử trảm.
Sau bảy tháng rưỡi bị giam cầm trong cảnh tay chân bị cùm xiềng, cổ mang gông nặng, và chịu đựng vô vàn đòn roi đau đớn, năm vị anh hùng đức tin vẫn bất khuất bên niềm tin Công Giáo. Theo chiếu chỉ Phân Sáp, quan lính dùng dùi sắt nung đỏ khắc chữ lên mặt các vị chứng nhân của Chúa - bên phải khắc "Tả đạo", bên trái ghi tên làng xã. Không thể diễn tả hết nỗi đau đớn và nhục nhã mà các ngài phải gánh chịu. Đau đớn vì vết thương nhức nhối khó chịu, nhục nhã vì bị in dấu khinh miệt đức tin. Nhưng các ngài vẫn kiên nhẫn chịu đựng, miễn sao tâm hồn được trung thành với Chúa.
Để được Chúa nâng đỡ, mỗi ngày các ngài quây quần cầu nguyện, đọc kinh Mân Côi, và cùng nhau dâng lên Chúa lời tuyên xưng đức tin tuyệt đối, phó thác mạng sống cho thánh ý Chúa. Chính nhờ những lời cầu nguyện nồng nhiệt ấy mà các ngài có được sức mạnh và can đảm vượt qua mọi gian nguy thử thách. Ngoài ra, các ngài còn cùng nhau sám hối lỗi lầm, ăn chay ba ngày mỗi tuần để chuẩn bị đón nhận hồng ân tử đạo.
Trong bức thư ngày 2/8/1862, linh mục Estévez Nam cho biết tình trạng bách hại đạo ở Nam Định lúc bấy giờ như sau: Các giáo dân bị trục xuất khỏi nhà cửa, bị bắt đi lính 5 người một, chỉ được mang theo ít gạo ăn độ 2 ngày... Có 300 giáo dân bị giam, không được cấp lương thực nên trong vòng vài ngày, 240 người đã chết đói, số còn lại hấp hối... Ngày 18/5, Tổng đốc Nguyễn Đình Tân ra lệnh chém 21 người, ngày 22 chém 43, ngày 26 chém 67... Ngày 30/5 trói 112 người và thả trôi sông, hôm sau lại 112 người khác... Các quan huyện cũng bắt chước làm như vậy. Hàng trăm giáo dân bị chém, thiêu sống, hay bị trói đôi một ném xuống giếng cho đến chết...
Riêng với 5 vị tử đạo chính trong câu chuyện, quan vẫn còn dụ dỗ. Ngày 15/6/1862, quan lại yêu cầu các ngài chà đạp Thánh Giá nhưng bị từ chối. Quan bèn sai trói cả ngày không cho ăn uống. Sáng hôm sau, quan lại dùng lời lẽ ngọt ngào để thuyết phục các ngài bỏ đạo nhưng ông Mạo đại diện thưa rằng: "Xin quan đừng dụ dỗ chúng tôi. Nếu vì sợ khổ mà bỏ đạo thì chúng tôi đã làm ngay từ đầu rồi, đâu đến nỗi phải chịu khổ sở nơi đây. Bây giờ quan cứ theo ý quan đi, chúng tôi không bao giờ bỏ đạo”.
Tức giận trước lời nói kiên quyết ấy, quan ra lệnh xử tử ngay lập tức năm vị tôi tớ trung thành của Chúa. Quân lính điệu các ông đến pháp trường làng Bạch Cốc, tỉnh Nam Định. Các vị chứng nhân cầu nguyện, phó thác linh hồn cho Chúa và xin Ngài ban sức mạnh đối mặt với thử thách cuối cùng. Quả thế, các ông đã thể hiện sự can đảm phi thường. Ngoài ông Đa Minh Nhi, 4 vị còn lại đều xin lý hình chém 3 nhát thay vì 1 nhát để tỏ lòng kính Đức Chúa Ba Ngôi.
Ngày 16/6/1862, năm vị anh hùng đức tin đã hy sinh tại pháp trường. Thi hài các ngài được mai táng tại nơi tử đạo, đến năm sau mới đưa về an táng trong nhà thờ quê nhà.
Ngày 29/4/1951, Đức Giáo hoàng Piô XII tôn phong các ngài lên hàng Chân phước. Đến ngày 19/6/1988, Đức Gioan Phaolô II tôn phong các vị lên bậc Hiển thánh.